CAmera IP kỷ nguyên mới của camera quan sát
Hệ
thống camera quan sat (Closed Circuit Television – CCTV) bắt đầu phát
triển từ những năm 1970 cho mục đích an ninh và các ứng dụng quan sát
khác. Cho đến hiện nay, sự phát triển của một hệ thống CCTV có thể chia
thành 3 giai đoạn: giai đoạn đầu tiên là kỷ nguyên VCR (Video Cassette
Recorder – đầu ghi hình băng từ), tiếp theo là kỷ nguyên DVR (Digital
Video Recorder – đầu ghi hình kỹ thuật số) và cuối cùng là kỷ nguyên
IP-Surveillance (quan sát qua mạng IP). Tương ứng với từng giai đoạn,
cuộc cách mạng số hệ thống CCTV đã làm thay đổi bốn thành phần cơ bản
camera, bộ ghi hình, màn hình quan sát và hệ thống mạng video.
Đầu tiên, sự số hóa camera bắt đầu vào năm 1990 khi camera kỹ thuật số sử dụng bộ cảm biến quang điện số (CCD sensor)
thay thế cho bộ cảm biến quang điện tương tự (analog tube). Đây chỉ là
một sự số hoá có chừng mực vì vẫn sử dụng hệ thống cáp đồng trục để
truyền tín hiệu hình ảnh (Composite Video) và việc ghi hình cũng còn sử
dụng băng từ. Thời kỳ này chính là kỷ nguyên VCR.
Khoảng
năm 1996, sự số hóa bộ ghi hình đã biến đổi bộ ghi hình VCR thành bộ
DVR. Ưu điểm của bộ DVR là không phải lưu trữ băng từ mà bằng ổ cứng,
chất lượng hình ảnh ghi tốt và không bị biến đổi, việc xem lại nhanh
chóng và hiệu quả. Ở giai đoạn này, ngõ vào từ camera vẫn là cáp đồng
trục và tín hiệu hình ảnh là video com-posite, màn hình quan sát vẫn là
màn hình analog, nên trên thực tế đây là sự lai tạp giữa kỹ thuật tương
tự (Analog) và kỹ thuật số (Digital). Đây chính là giai đoạn khởi đầu
của kỷ nguyên DVR. Vào nửa sau của kỷ nguyên DVR, sự số hóa màn hình
quan sát đã biến đổi màn hình quan sát analog thành màn hình máy tính
VGA (Video Graphics Array) và lúc này cấu trúc của một bộ DVR gần như là
một máy tính với mô đun bắt hình. Ngoài ra, bộ ghi hình dần được trang
bị thêm mô đun mạng và kết hợp với modem ADSL để có thể xem hình từ xa
qua mạng LAN/WAN/Internet.
Sự số hóa mạng video bắt đầu năm 2002, đã hoàn thành cuộc cách mạng số hệ thống CCTV, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên mạng IP-Surveillance. Mạng IP surveillance là
một hệ thống cho phép chúng ta có thể quan sát và ghi hình từ xa qua
giao thức TCP/IP (LAN/WAN/Internet). Khác với hệ thống analog sử dụng
cáp đồng trục để nối từng camera về trung tâm, mạng IP-Surveillance sử
dụng hệ thống mạng máy tính thông thường (CAT-5) làm môi trường truyền
dẫn thông tin. Nếu ở kỷ nguyên DVR sự số hóa và nén ảnh diễn ra bên
trong bộ DVR thì sang kỷ nguyên IP-Surveillance, sự số hóa và nén ảnh
diễn ra bên trong camera IP hoặc bên ngoài camera nhờ bộ nén ảnh và
chuyển đổi IP (Video Server). Lúc này bộ ghi hình sẽ ghi qua mạng TCP/IP
và được gọi là bộ NVR (Network Video Recorder).
Tương lai của hệ thống camera mạng IP-surveillance
Kỷ
nguyên VCR gần như đã kết thúc. Báo cáo thống kê của J.P Freeman and
Co., Inc, công ty chuyên khảo sát về thị trường camera, cho biết năm
2005 mức tiêu thụ VCR chỉ còn 5% và sẽ kết thúc, mức tiêu thụ DVR khoảng
75%, mức tiêu thụ sản phẩm IP-surveillance khoảng 20% và được dự báo sẽ
tiếp tục gia tăng mạnh mẽ vào những năm tới.
Thật
ra DVR và IP-surveilance có chung một số ưu điểm như khả năng ghi và
lưu trữ vào ổ cứng, chất lượng hình ảnh cao và ổn định, truy xuất hình
ảnh nhanh và tiện lợi, có thể truy xuất hình ảnh từ xa qua mạng
LAN/WAN/Internet. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chúng chính là sự nâng
cấp hệ thống IP-surveilance có thể từ một lên đến hàng ngàn camera so
với mỗi lần nâng cấp 16 camera của DVR. Việc dựa trên nền tảng mạng IP
cho phép cấu hình IP-surveillance linh hoạt hơn trong việc quản lý, ghi
hình qua mạng, việc sửa chữa thay thế hạ tầng mạng dễ dàng và nhanh
chóng hơn. Ngoài ra, sử dụng hệ thống IP-surveilance sẽ cho giá thành
trên mỗi camera rẻ hơn so với DVR.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét